Tham gia Diễn đàn có đại diện các cơ quan quản lý nhà nước, các hiệp hội nghề nghiệp và doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Hợp tác cùng hành động
Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về BĐKH tổ chức thành công tại Vương quốc Anh cuối năm 2021 với thông điệp “Đoàn kết thế giới để ứng phó với BĐKH”. Việt Nam thể hiện quyết tâm cao, cam kết cùng cộng đồng quốc tế ứng phó với BĐKH toàn cầu với cam kết đưa mức phát thải ròng về “0” vào năm 2050, giảm 30% tổng phát thải khí mê tan vào năm 2030 so với năm 2020, chuyển đổi điện than sang năng lượng tái tạo và nhiều sáng kiến toàn cầu khác.

Phát biểu khai mạc diễn đàn, ông Phạm Văn Tấn - Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu, Bộ TNMT cho biết, ngay sau Hội nghị COP26, với tinh thần “hợp tác hành động”, Chính phủ Việt Nam đã chủ động và tích cực triển khai các kết quả và cam kết, trong đó Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã ký ban hành Quyết định 2157/QĐ-TTg ngày 21/12/2021 về việc thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia triển khai thực hiện cam kết của Việt Nam tại Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu (COP26). Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính làm Trưởng Ban Chỉ đạo, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành làm Phó Trưởng ban, các Ủy viên gồm là lãnh đạo chủ chốt các Bộ TNMT, Chủ nhiệm VPCP, KHĐT, Tài chính, Tư pháp, GTVT, Xây dựng, NNPTNT…
Cục BĐKH, Bộ TNMT đã xây dựng và đang hoàn thiện Chiến lược quốc gia về BĐKH giai đoạn dến năm 2050, trong đó cụ thể hóa mục tiêu đưa phát thải ròng về “0” vào năm 2050 theo đúng những gì Việt Nam cam kết tại COP26. Theo đó, để đưa phát thải ròng về “0”, lĩnh vực năng lượng phải giảm ít nhất 32% phát thải khí mê tan vào năm 2030, giảm ít nhất 90% phát thải khí mê tan vào năm 2050 so với kịch bản phát thải trong điều kiện phát triển thông thường của Việt Nam. Để thực hiện được việc này, cần thiết phải thay thế điện than bằng các nguồn điện gió, điện mặt trời, điện khí và các nguồn điện ít phát thải khác là cách bắt buộc phải theo.
Ông Lương Quang Huy - Trưởng phòng Giảm nhẹ khí nhà kính và bảo vệ tầng Ozon cho biết, theo tính toán sơ bộ thực hiện phương án trung hòa carbon tới năm 2050 thì Việt Nam phải nỗ lực hơn nhiều và chi phí đến năm 2030 cũng lớn hơn nhiều so với con số 30 tỷ USD cập nhật trong đệ trình Đóng góp do quốc gia tự quyết định. Chi phí đầu tư cao, trong khi Việt Nam chưa nghiên cứu làm chủ được công nghệ là một thách thức lớn trong thực hiện mục tiêu giảm phát thải.

Bên cạnh đó, các trang trại điện gió, điện mặt trời mặc dù có tiềm năng nhưng khó bảo đảm sự ổn định liên tục của lưới điện quốc gia như các nhà máy nhiệt điện. Những thách thức, khó khăn này cần được Chính phủ giải quyết thông qua ban hành và thực hiện hiệu quả các chính sách như chiến lược ứng phó với BĐKH, chiến lược năng lượng tái tạo và đặc biệt là quy hoạch phát triển điện lực quốc gia bên cạnh việc đưa ra các chính sách hỗ trợ nhằm thu hút đầu tư cho phát triển năng lượng tái tạo.
Phát triển năng lượng tái tạo gặp nhiều khó khăn
Dự báo về nhu cầu điện quốc gia đến năm 2045, ông Nguyễn Mạnh Cường - Phó Trưởng phòng Phát triển hệ thống điện, Viện Năng lượng (Bộ Công thương) cho biết, nhu cầu tiêu thụ điện của Việt Nam được dự báo sẽ tiếp tục tăng với tốc độ cao trong những năm tới, trong đó giai đoạn 2021-2030 tăng 8,5%/năm, 2031-2045 tăng 4%/năm. Mức tiêu thụ điện thương phẩm có thể tăng từ 216 tỷ kWh năm 2020 lên hơn 300 tỷ kWh vào năm 2030 và hơn 800 tỷ kWh vào năm 2045.
Ông Nguyễn Mạnh Cường cho rằng, để đạt được mục tiêu NET ZERO 2050, nguồn năng lượng tái tạo như điện gió, điện mặt trời sẽ đóng góp chính trong cơ cấu năng lượng điện khoảng 32% vào năm 2030 và 58% vào năm 2045. Hệ thống nguồn điện, lưới điện truyền tải cần được nâng cấp, xây dựng mới bảo đảm cung cấp điện thông suốt, tin cậy. Cơ cấu nguồn điện cần có tính đa dạng với sự đóng góp quan trọng của hệ thống tích trữ năng lượng nhằm bảo đảm an ninh hệ thống diện và hiệu quả đầu tư nguồn năng lượng tái tạo.
Tuy nhiên, việc phát triển năng lượng tái tạo đang gặp một số khó khăn, vướng mắc gây ảnh hưởng đến tiến độ triển khai các dự án. Theo ông Hoàng Trọng Hiếu - Phó chánh Văn phòng Ban chỉ đạo quốc gia về phát triển điện lực, tính đồng bộ giữa quy hoạch điện lực và một số quy hoạch hạ tầng khác khác chưa cao; một số địa phương chưa cập nhật kịp thời quy hoạch điện lực vào quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; quá trình đàm phán hợp đồng BOT và cấp giấy phép đầu tư liên quan đến nhiều bộ, ngành, quá trình đầu tư xây dựng qua nhiều cấp thẩm quyền phê duyệt nhưng còn thiếu sự kết nối, liên thông, không rõ thẩm quyền phê duyệt. Hầu hết các dự án điện đều gặp khó khăn trong GPMB, việc thu xếp các nguồn vốn trong nước gặp nhiều khó khăn do hầu hết các ngân hàng trong nước đã vượt hạn mức tín dụng đối với chủ đầu tư và các đơn vị liên quan đến dự án điện…
Bên cạnh đó, chi phí bù giá cho năng lượng tái tạo đang được hòa chung với chi phí của ngành điện, chưa tách rõ ràng trong hóa đơn tiền điện, khi tỷ trọng năng lượng tái tạo tăng lên thì thành phần bù giá sẽ ngày càng tăng và ảnh hưởng lớn đến chi phí giá thành ngành điện. Do phụ thuộc vào điều kiện thời tiết, địa hình, khí hậu... nên tiềm năng các nguồn năng lượng tái tạo thường tập trung ở một số tỉnh, địa phương nhất định trong khi phần lớn các tỉnh này có phụ tải tiêu thụ tại chỗ nhỏ, do đó gây áp lực lên hệ thống lưới điện trong truyền tải công suất.
Việc nghiên cứu, xây dựng và vận hành các thiết bị tích trữ điện năng, xây dựng các hệ thống lưới điện thông minh, xây dựng hệ thống dự báo thời tiết, khí tượng theo thời gian thực, các vấn đề về điều khiển trảo lưu công suất, điều khiển điện áp, tần số… vẫn chưa đáp ứng yêu cầu từ thực tế. Việt Nam thiếu những doanh nghiệp sản xuất và cung cấp thiết bị năng lượng tái tạo cũng như các dịch vụ liên quan nên công nghệ, thiết bị phần lớn phải nhập khẩu khiến cho giá và khả năng cung cấp thiết bị phụ thuộc nhiều vào biến động của thế giới.
Các dự án năng lượng tái tạo có nhu cầu về vốn lớn nhưng tiềm ẩn nhiều rủi ro do công suất và sản lượng phụ thuộc vào thời tiết, khí hậu, khả năng thu hồi vốn kéo dài do suất đầu tư cao hơn nguồn năng lượng truyền thống, vì vậy các tổ chức tài chính, ngân hàng chưa sẵn sàng cho vay.
Có thể thấy, việc triển khai thực hiện cam kết của Việt Nam tại COP26 là hết sức khó khăn đòi hỏi sự nỗ lực của các nhà hoạch dịnh chính sách, các địa phương, sự tham vấn của các nhà khoa học đầu ngành và sự ủng hộ của cộng đồng doanh nghiệp trong các lĩnh vực năng lượng, tài chính, ngân hàng.