Trí tuệ nhân tạo giúp gì trong ngành giáo dục?

Sự phát triển của trí tuệ nhân tạo (AI) đã được công nhận rộng rãi như một biểu hiện của sức mạnh toàn diện của một quốc gia thông qua năng lực đổi mới, sáng tạo.

Các Chính phủ, các tập đoàn, các viện nghiên cứu và trường đại học trên thế giới đang quan tâm đầu tư ngày càng nhiều cho AI vì những lợi ích rất lớn mà nó đem lại trong tương lai. Theo công ty PriceWaterhouse Coopers (PwC) - công ty kiểm toán hàng đầu thế giới hiện nay, AI được xem là công nghệ nền tảng quan trọng nhất dẫn dắt hoạt động chuyển đổi số trong các ngành, các lĩnh vực, các tổ chức doanh nghiệp.

Theo dự báo của PwC, vào năm 2030, AI sẽ đóng góp thêm 15,7 nghìn tỷ USD cho nền kinh tế toàn cầu. Nhiều người có quan điểm lạc quan về AI cho rằng nó sẽ tạo ra những ngành công nghiệp mới và việc làm mới.

Theo Báo cáo Chỉ số AI 2022 của Đại học Stanford, từ năm 2010 đến năm 2021, tổng số công bố khoa học về AI đã tăng gấp đôi, tăng từ 162.444 năm 2010 lên 334.497 vào năm 2021. Theo loại ấn phẩm công bố, năm 2021, 51,5% tất cả các tài liệu AI được xuất bản là các bài báo trên tạp chí, 21,5% là các bài báo hội nghị và 17,0% là từ các kho lưu trữ. Sách, chương sách, luận văn và các loại tài liệu không xác định liên quan đến AI chiếm 10,1% còn lại.

Công tác đổi mới giáo dục hiện nay cũng đang tập trung vào việc chuẩn hóa nhằm mục đích giảm bớt sự khác biệt giữa các học sinh về thành tích. Chính vì vậy, hệ thống dạy kèm trí tuệ nhân tạo AI đã ra đời nhằm mục đích tối ưu hóa bài giảng cho các cập bậc và đảm bảo phù hợp với khả năng tiếp thu của học sinh.

Để hiễu rõ hơn, dưới đây là những bài nghiên cứu đã được xuất bản chính thức và chấp nhận đăng trên những cơ sở dữ liệu học thuật chính thống.

Trí tuệ nhân tạo, công cụ cần thiết trong giáo dục đại học

Bài nghiên cứu về Trí tuệ nhân tạo: Một công cụ ảo để tăng cường việc đào tạo trong giáo dục đại học, của các tác giả: K. Hemachandran, Priti Verma, Purvi Pareek, Nidhi Arora, Korupalli V. Rajesh Kumar, Tariq Ahamed Ahanger, Anil Audumbar Pise and Rajnish Ratna.

Các tác giả đưa ra các quan điểm cho rằng sinh viên sẽ được hưởng lợi nhiều nhất trong ngành giáo dục khi đưa trí tuệ nhân tạo vào áp dụng. “Sinh viên sẽ có giáo viên dạy họ với cảm xúc không bao giờ thay đổi; ông ta sẽ không buồn; vui; giận; v.v ... Lúc nào ông ta cũng vậy.” Sinh viên có thể chủ động thời gian, tốc độ học tập của bản thân vì các hệ thống này có thể được tính toán theo nhu cầu của sinh viên. Sinh viên có thể sẵn sàng đặt câu hỏi, vì không có sinh viên nào khác mà họ cảm thấy ngại ngùng, hoặc ở đó không người mà họ sẽ sợ hãi khi đối mặt. Tuy nhiên, trong những lợi ích đó thì có những trở ngại mà sinh viên sẽ phải đối mặt, họ sẽ bỏ lỡ cảm xúc của mình với giáo viên. Có thể thấy rằng, sinh viên sẽ chia sẻ tất cả vấn đề với giáo viên và sẽ nhận được lời khuyên, nhưng với trí tuệ nhân tạo, nơi không có cảm xúc, thì chúng ta không thể mong đợi điều đó.

Khi nhìn từ góc độ của một giáo viên, họ chính là người mất việc. Họ là những người sắp mất kế sinh nhai. Tuy nhiên, như chúng ta biết rằng con người có những cảm xúc lên xuống, chúng ta sẽ nhận thấy các giáo viên đang được đẩy mạnh trở lại, và học sinh có xu hướng nghiên về sự hướng dẫn của con người, ít nhất cho đến khi chúng ta phát triển cảm xúc cho hệ thống trí tuệ nhân tạo.

Ảnh hưởng của trí tuệ nhân tạo đến hệ thống giáo dục

Nghiên cứu về Phân tích ảnh hưởng của trí tuệ nhân tạo đến vai trò nhận thức trong hệ thống giáo dục, của các tác giả: Jianjian Zhu and Chuming Ren thì cho rằng, với sự hỗ trợ của công nghệ AI, tôn trọng các đặc điểm cá nhân của người học và cung cấp hướng dẫn cho người học sắp sửa đến thực tế.

Nhiên cứu đã chỉ ra, dựa trên thông tin cá nhân của người học, đặc điểm nhận thức, hồ sơ học tập, thông tin vị trí, thông tin xã hội truyền thông và các cơ sở dữ liệu khác. Chương trình AI có thể tự nghiên cứu và xây dựng một mô hình người học và liên tục điều chỉnh và tối ưu hóa các tham số của mô hình dựa trên việc mở rộng và cập nhật tập dữ liệu, do đó hiện thực hóa việc thúc đẩy cá nhân hóa tài nguyên, lộ trình học tập và dịch vụ học tập.

Ở đây vẫn còn sự khác biệt lớn giữa giao tiếp mặt đối mặt và tương tác mặt đối mặt giữa mọi người. Đối với việc học của sinh viên trong trường, cần phải tôn trọng kiến ​​thức cấu trúc của khóa học, tính đến sở thích học tập của sinh viên và khám phá các quy luật ẩn dựa trên dữ liệu, chẳng hạn như nội dung học tập, đề xuất của giáo viên, sở thích của học sinh, và các hành vi học tập, để xây dựng một quá trình học tập hiệu quả mô hình hỗ trợ.

"Do đó, AI có vai trò nhận thức trong hệ thống giáo dục", Nghiên cứu của 2 tác giả khẳng định.

Vai trò của dự án cần được phân tích một cách có hệ thống từ các khía cạnh của biểu mẫu thực hiện chức năng, phương pháp trình bày tài nguyên, phương pháp tương tác giữa giáo viên và học sinh, và phương pháp trình bày bài tập.

Với tư cách là người kết nối, giáo viên bị giới hạn bởi mức độ hiểu biết của người học, số lượng tài nguyên và khả năng xử lý dữ liệu, nhưng lợi thế là họ có thể theo dõi và điều chỉnh một cách linh hoạt. Công nghệ AI là linh hoạt và đa dạng, nó hoạt động trong các hoạt động học tập và giảng dạy theo nhiều cách khác nhau, và không có sự thống nhất về thuật ngữ để mô tả vai trò của nó. Kết quả của bài nghiên cứu này cung cấp tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu sâu hơn về tác động của AI đối với nhận thức vai trò trong hệ thống giáo dục.

AI là một tập hợp các giải pháp công nghệ cho phép bắt chước các chức năng nhận thức của con người (bao gồm tự học và tìm kiếm giải pháp mà không cần thuật toán định trước) và thu được kết quả khi thực hiện các nhiệm vụ cụ thể mà ít nhất có thể so sánh được với kết quả hoạt động trí tuệ của con người. Nó bao gồm cơ sở hạ tầng thông tin và truyền thông, phần mềm (bao gồm cả những phần mềm sử dụng phương pháp học máy), các quy trình và dịch vụ để xử lý dữ liệu và tìm kiếm giải pháp. Các nhóm công nghệ AI chính bao gồm thị giác máy tính, xử lý ngôn ngữ tự nhiên, nhận dạng và tổng hợp giọng nói, hệ thống hỗ trợ quyết định thông minh và các kỹ thuật AI tiên tiến

Vi Sa